Thứ Sáu, 9 tháng 6, 2017

Cây hoa tai


Danh pháp khoa học: Malvaviscus arboreus Cav. (Họ Bông- Malvaceae)

Cây còn được gọi là Hoa ớt, Hoa râm bụt leo.

Về mặt hình thái, cây có kích thước vừa phải, có thể cao tới 5m. Lá mọc so le, hình trứng rộng hay hình ngọn giáo, mép khía lượn không đều, tùy vào phân loài mà lá có thể dạng nguyên hoặc có 3-5 thùy. Hoa mọc ở nách lá và mọc đơn, có tràng hoa đỏ hoặc hồng sậm, dài 5-7 cm, 10 đầu nhụy. Hoa tai có đặc điểm nổi bật là không bao giờ nở xòe ra một cách hoàn toàn. Thực tế, quả của cây dài 6-10 cm nhưng được bao bởi đài hoa nên ít người thấy. Cây thường ra hoa vào tháng 10-12 hàng năm.

Ở Việt Nam, cây thường được sử dụng chủ yếu để làm hàng rào và làm cảnh, song cây hoa tai cũng có những tác dụng nhất định trong y học, đặc biệt là hoa và lá. Y học cổ truyền cho rằng, dịch của lá cây hoa ớt sau khi giã nát có thể được sử dụng để trị bệnh ngoài da do tăng tiết bã nhờn và nhớt không nhiễm trùng; ngoài ra cũng dùng để trị bệnh chấy rận, ghẻ. Hoa có thể hãm uống để trị sổ mũi cho trẻ sơ sinh. Ở một số nước khác, rễ vỏ và lá còn được cho là có tác dụng bạt độc tiêu thũng.

SonSonBio

Thứ Bảy, 20 tháng 5, 2017

Phẫu thuật nối xương thắt lưng

Xương sống bao gồm nhiều đoạn xương nhỏ liên kết với nhau được gọi là đốt sống. Chúng kéo dài từ cuối đầu cho đến xương cụt. Mỗi đốt liên kết với hai đốt liền kề nó bằng khớp đốt sống cho phép nó liên kết chuyển động với đốt khác. Ở giữa các đốt sống là đĩa đệm, giúp hấp thu chấn động, bảo vệ cột sống cũng như các đốt sống khỏi các chấn động, tổn thương bên ngoài. Khớp đốt sống và đĩa đệm phối hợp với nhau cho phép cổ, lưng có thể uốn và vặn tùy ý. Cột sống bảo vệ tủy sống, cơ quan liên kết não với toàn bộ cơ thể. Thông qua các dây thần kinh tủy bắt đầu từ tủy sống, tín hiệu từ não đi tới các cơ quan cũng như tín hiệu đi theo chiều ngược lại được thông suốt và diễn ra với tốc độ cực nhanh.

Cột sống bao gồm các đốt sống cổ, ngực và thắt lưng. Các vấn đề ở thắt lưng bao gồm thoái hóa đĩa đệm hoặc bất động cột sống. Thoái hóa khớp có thể là do các chấn thương về cấu trúc và chức năng cột sống. Bất động cột sống là vấn đề do một đốt sống bị chệch đi so với các đốt cạnh nó. Viêm khớp mãn tính khớp đốt sống là do cột sống bị biến dạng, ví dụ như chúng vẹo xương sống hoặc đốt sống bị gãy.

Bác sĩ sẽ khuyến cáo nên nối đốt sống lưng sau giúp cố định xương và giảm đau do chấn thương hoặc đoạn cong bất thường.


Bắt đầu phẫu thuật, bác sĩ sẽ tạo một vết rạch phía trên phần xương sống thắt lưng. Phần bên ngoài xương sẽ bị loại bỏ để chuẩn bị nối. Bác sĩ sẽ đặt các đinh ốc lên các đốt sống ở vùng thương tổn. Các thanh nối sẽ được đặt song song với cột sống và gắn vào các đinh ốc. Để cố định các thanh nối và tăng cường khả năng bảo vệ và cố định xương sống, bác sĩ có thể sẽ lấy một đoạn nhỏ xương chậu để ghép xương. Trường hợp khác, các bác sĩ thường sử dụng các xương từ ngân hàng xương để ghép. Bác sĩ sẽ đặt các đoạn xương ghép song song với xương sống và giữ cho xương ổn định. Cuối cùng, vết mổ được khâu lại.
SonSonBio

Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2017

Tiểu đường type 1

Tiểu đường type 1 là tình trạng bệnh mà tuyến tụy không sinh ra được insulin, một loại hormone giúp duy trì nồng độ đường huyết ở ngưỡng thích hợp.
Sau khi bạn ăn thức ăn có chứa đường, các chất ví dụ như các enzyme, các acid trong dạ dày và ruột sẽ phân giải chúng thành các phân tử đường đơn được gọi là glucose. Sau đó, các tế bào trên thành ruột sẽ hấp thụ glucose và chuyển vào máu.

Khi máu đi qua tụy, các tế bào beta trong đảo tụy sẽ phát hiện sự gia tăng lượng glucose. Các tế bào này sẽ giải phóng insulin vào trong máu để giảm lượng glucose và duy trì đường huyết ở ngưỡng cho phép.

Đa số các tế bào trong cơ thể đều có các thụ thể trên bề mặt để insulin có thể bám vào. Insulin đóng vai trò như một chiếc chìa khóa để mở cổng cho glucose từ máu đi vào tế bào. Bây giờ, tế bào mới có thể sử dụng glucose để tạo năng lượng cho các các hoạt động chức năng.

Nếu bạn bị tiểu đường type 1, đồng nghĩa với việc các tế bào beta của tụy không còn khả năng tiết insulin, từ đó làm tăng đường huyết và kéo theo các biến chứng khác. Khi bị tiểu đường type 1, hệ miễn dịch, đặc biệt là các tế bào bạch cầu không phân biệt được đâu là tế bào beta của bạn và tế bào lạ. Một cách tự động, các tế bào bạch cầu tiết ra các kháng thể tiêu diệt các tế bào beta. Từ đó, khả năng tiết insulin của tụy bị hạn chế hoặc mất hoàn toàn. Không có insulin, glucose không thể đi vào tế bào. Do đó các tế bào rơi vào tình trạng thiếu hụt năng lượng từ glucose. Hơn nữa, khi đường huyết tăng cao sẽ dẫn tới tình trạng gọi là tăng đường huyết (hyperglycemia). Các dấu hiệu thường gặp ở bệnh nhân tăng đường huyết do tiểu đường type 1 bao gồm:
  • Nhanh đói
  • Nhanh khát
  • Tiểu nhiều lần
  • Giảm cân bất thường
  • Mệt mỏi
  • Ốm yếu
  • Dễ kích động
  • Và hạn chế tầm nhìn

Nếu tình trạng tăng đường huyết không được điều trị sớm, nó có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Do cơ thể không đủ insulin trong máu, các tế bào không thể sử dụng glucose để sinh năng lượng. Do đó, cơ thể phân giải chất béo và protein dự trữ để tạo ra năng lượng. Khi phân giải chất béo, rất nhiều các phụ phẩm khác như ketone cũng đi vào trong máu và sẽ dẫn đến tình trạng gọi là hội chứng ketone huyết (ketosis). Khi lượng ketone tăng quá cao sẽ dẫn tới chứng nhiễm toan ketone do đái đường (diabetic ketoacidosis). Nếu lượng đường huyết ở mức cao trong thời gian dài, các vấn đề về sức khỏe có thể thấy ví dụ như:
  • Xơ vữa động mạch
  • Thương tổn thần kinh
  • Và các bệnh về thận

Nếu bạn bị tiểu đường type 1, quá trình điều trị sẽ giúp bạn giữ đường huyết ở ngưỡng an toàn. Điều trị tiểu đường type 1 bao gồm việc thay thế insulin thích hợp, điều chỉnh đường huyết và quan trọng nhất là duy trì chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục đều đặn. Do tụy không thể tiết insulin, bạn sẽ cần bổ sung insulin bên ngoài để thay thế. Các chuyên viên được cấp chứng chỉ có thể hướng dẫn bạn cách tiêm insulin dưới da. Bạn sẽ cần phải tiêm nhiều lần trong ngày và thay đổi các vị trí tiêm để tránh gây thương tôn mô và các vấn đề về hấp thụ. Một cách khác để đưa insulin vào cơ thể là thông qua các bơm insulin, máy được gắn lên cơ thể và đưa insulin vào thông qua một ống tiêm qua da. Bạn cũng sẽ phải kiểm tra lượng glucose trong máu nhiều lần trong ngày bằng đường kế (glucometer). Để làm việc này, bạn sẽ dùng một loại kim nhỏ là lưỡi chích (lancet) để chích máu từ ngón tay và nhỏ giọt máu vào đường kế

Kiến thức về đường huyết cho phép bạn điều chỉnh lượng insulin, năng lượng cần thiết cho mỗi bữa ăn cũng như hoạt động thể thao cần thiết. Bạn sẽ cần một chế độ ăn lành mạnh và tập thể dục để duy trì lượng đường huyết và giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch.



SonSonBio

Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

Về phương pháp Hóa trị trong điều trị Ung thư

Nếu bị ung thư, thông thường, bác sĩ sẽ khuyên bạn nên điều trị bằng hóa trị. Cái tên này chắc hẳn bạn đã nghe thấy ở đâu đó, nhưng liệu pháp này là gì, cũng như ảnh hưởng của nó tới sức khỏe ra sao? Thì có lẽ không phải ai cũng biết. Bài viết ngắn dưới đây sẽ cho bạn cái nhìn tổng quát về phương pháp điều trị ung thư này.

Các tế bào trong cơ thể phát triển và phân chia theo chu trình sống của tế bào. Nhân tế bào điều khiển quá trình này hoạt động một cách chuẩn xác và gần như không có bất kỳ lỗi nhỏ nào xuất hiện. Bên trong nhân, vật chất di truyền, hay còn gọi là ADN, chứa tất cả các thông tin liên quan đến phân bào. Các thông tin này sẽ được truyền tự thế hệ tế bào này, sang thế hệ tế bào khác nhằm đảm bảo quá trình phân bào được thông suốt và không có sai lầm nào xảy ra. Tuy nhiên, dưới tác động của nhiều tác nhân như hóa chất, thói quen sống, tình trạng tâm lý, sinh lý cũng như tuổi tác, các gene mang thông tin điều khiển phân bào có thể bị tấn công và hình thành các biến đổi. Trong đa số các trường hợp, ADN sẽ có cơ chế phụ trợ giúp nó tự sửa chữa hoặc bản thân nó sẽ phát ra tín hiệu gây chết tế bào. Tuy nhiên, đối với tế bào ung thư, ADN điều khiển phân bào bị tấn công và không thể tự sửa chữa hoặc gây chết tế bào. Thay vào đó, các đột biến ADN này khiến tế bào tăng sinh và phân chia không kiểm soát, từ đó phát triển thành các tế bào ung thư. Các sai hỏng tỏng ADN này sẽ được duy trì qua các lần phân bào tiếp theo và làm gia tăng số lượng các tế bào ung thư mới hình thành từ đó tạo nên các khối u. Về bản chất, khối u là do sự phát triển của các tế bào ung thư, thay thế các tế bào thường. Nhờ vào các đặc tính của mình, nó có thể vượt qua vòng kiểm soát của hệ thống miễn dịch mà đặc biệt là các loại bạch cầu. Do đó, nó không bị tiêu giảm một cách tự nhiên mà tiếp tục tăng sinh một cách không kiểm soát.


Để phát triển, khôi u phát triển hệ thống mạch máu cung cấp xung quanh nó. Về giải phẫu, lúc này chúng ta sẽ có hai khu vực u rõ ràng và có những đặc điểm sinh lý và hình thái cực kỳ khác nhau, đó là vùng tâm u và vùng lân cận u. Vùng tâm u là khu vực các tế bào u hình thành sớm, mật độ tế bào ung thư trong khu vực này là cực kỳ cao. Do tế bào ung thư có thành tế bào rất dày để bảo vệ nó khỏi sự tấn công của hệ miễn dịch nên về hình thái, vùng mô này có màu vàng sậm hơn các khu vực mô khác và bị xơ hóa nhiều hơn. Vùng biên bên ngoài khối u sẽ có màu đỏ tươi vì đây là khu vực vi môi trường u, tăng sinh mạch máu để cung cấp các chất dinh dưỡng cho các tế bào ung thư nội u. Do đó, mô ở khu vực này thường mềm hơn và chứa nhiều mạch máu hơn.

Vì khả năng liên kết của các tế bào ung thư không tốt như ở các tế bào thường. Do đó, chúng dễ dàng thoát ra khỏi khối u và đi vào mạch máu gần nhất mà thông thường là đi qua hệ mạch máu mới hình thành ở vi môi trường u xung quanh, Các tế bào u sau khi đi vào mạch máu có thể khuếch tán tới các bộ phận khác của cơ thể và hình thành các khối u mới Giai đoạn này được gọi là ung thư di căn. Các khối u mới có thể được hình thành ở phổi, gan và xương. Một cách khác giúp tế bào u phát tán trong cơ thể là thông qua hệ thống mạch bạch huyết. Tế bào u có thể đi vào mạch bạch huyết gần khối u và di chuyển đến các cơ quan nhỏ gọi là nút bạch huyết. Nếu tế bào đi qua các nút, chúng có thể tiếp tục hành trình di căn thông qua hệ bạch huyết và hình thành các khối u mới. Do đó, trong xét nghiệm và phẫu thuật, các bác sĩ sẽ kiểm tra rất kỹ khu vực xung quanh khối u để kiểm tra xem có mạch bạch huyết nào gần đó không, đồng thời cũng kiểm tra mức độ lan tới mạch  bạch huyết của khối u. Nếu khối u ở rất gần các nút bạch huyết, các bác sĩ thường sẽ chỉ định điều trị thêm bằng hóa trị như một giải pháp an toàn giúp loại bỏ toàn bộ các tế bào ung thư có thể đã đi theo mạch bạch huyết.

Phương pháp hóa trị sử dụng các loại hóa chất có đích tác động là các tế bào sinh trưởng và phân chia nhanh như tế bào ung thư. Khối u dần teo lại do các tế bào của nó dừng phân chia và chết. Đa số các thuốc trong hóa trị đều có thể di truyển lan rộng trong cơ thể thông qua hệ tuần hoàn và tác động đến các tế bào ung thư di căn. Song, các loại thuốc này không thể phân biệt tế bào phân chia nhanh bình thường với tế bào u. Do đó, chúng cũng đồng thời gây tổn thương hoặc kích thích các tế bào phân chia nhanh bình thường như tế bào tủy xương, tế bào tiêu hóa và tóc. Từ đó, các tác dụng phụ của hóa trị có thể có như suy giảm hoạt động miễn dịch, buồn nôn và rụng tóc.

Đích điều trị của hóa trị là tiêu diệt các tế bào ung thư ở khối u ban đầu và các khối u mới hình thành do di căn. Hơn nữa, trong điều trị ung thư giai đoạn đầu, các bác sĩ thường sử dụng hóa trị như một phép điều trị thứ cấp sau các phương pháp khác như xạ trị và phẫu thuật. Tùy thuộc vào vị trí cũng như loại ung thư, bạn có thể được điều trị với các dạng thuốc khác nhau như dạng viên, con nhộng hoặc dạng dịch có thể uống, tiêm ven hoặc tiêm cơ. Ngoài ra, thuốc cũng có thể chỉ được đưa đến vị trí khối u. Phương pháp dẫn thuốc tới vùng bụng hoặc ngực bằng một ống dẫn hẹp được gọi là ống thông. Một phương pháp khác là tiêm thuốc trực tiếp vào dịch não tủy xung quanh não và tủy sống. Phương pháp thứ ba là đặt các miếng dán dễ tan vào khu vực khối u. 

Trong đa số các trường hợp, bạn sẽ nhận được nhiều loại thuốc hóa trị khác nhau để nhằm làm tăng hiệu quả điều trị. Thời gian phát tán thuốc có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng phụ thuộc vào khả năng hồi phục giữa các lần điều trị của bạn cũng như lượng tế bào bị tiêu diệt sau mỗi lần.

Các tác dụng phụ thường thấy khi điều trị bằng hóa trị là rụng tóc, buồn nôn, kém ăn, mệt mỏi, thiếu máu, bầm tím, tiêu chảy. Quan trọng là bạn cần nghỉ ngơi, bổ sung các chất dinh dưỡng và dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ để giảm các tác dụng phụ.




SonSonBio

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2017

Những nguyên nhân chính dẫn đến mất đa dạng sinh học

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc – FAO, có 5 nguyên nhân chính dẫn tới sự mất đa dạng sinh học, đó là mất môi trường sống, biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên quá độ, các loài xâm lấn nguy hiểm, ô nhiễm môi trường.



Mất môi trường sống.

Đây là hiện tượng khi môi trường tự nhiên bị biến đổi một cách bất thường do các hoạt động của con người, đây cũng được xem là nguyên nhân chính dẫn đến mất đa dạng sinh học trên phạm vi toàn cầu. Rất nhiều hoạt động của con người có thể dẫn đến hiện tượng này, ví dụ như chặt phá rừng để lấy gỗ xây dựng, sản xuất hoặc mở rộng diện tích đất nông nghiệp; xây đập ngăn nước để phát triển đô thị. Mất môi trường sống cũng có thể là do sự phân mảnh môi trường sống, đây là hiện tượng môi trường sống của sinh vật bị chia nhỏ ra thành nhiều phần do sự biến đổi địa hình, chẳng hạn như mở đường cắt ngang qua khu rừng sẽ khiến cánh rừng nguyên vẹn ban đầu bị chia thành hai phần. Việc phân nhỏ địa bàn sống này sẽ khiến các loại động vật gặp khó khăn trong việc di chuyển giữa các khu vực, hoặc sẽ tước đi địa bàn sống của các loài có lãnh thổ rộng. ví dụ như loài voi rừng châu Phi. Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên có thể giúp con người thu được những lợi ích nhất định nhưng chúng ta cũng cần xem xét tới sự ảnh hưởng của những hoạt động đó tới sự đa dạng sinh học vốn có, từ đó tạo nên sự phát triển kinh tế một cách bền vững.

Biến đổi khí hậu

Đây là hiện tượng do sự phát thải lượng lớn các khí nhà kính như carbon dioxide lên tầng khí quyển Trái Đất. Biến đổi khí hậu sẽ dẫn tới sự thay đổi rất lớn về môi trường cũng như toàn bộ các hệ sinh thái có trên Địa Cầu, nơi các loài động thực vật sinh sống. Ví dụ như việc thay đổi nhiệt độ và lượng mưa có thể khiến diện tích rừng mưa bị thu hẹp, nhiều loài thực vật mất đi các yếu tố cần thiết để phát triển. Để tồn tại, các sinh vật phải di cư để tìm khu vực sống mới thuận lợi hơn hoặc phải tự biến đổi để thích nghi với điều kiện môi trường mới. Bên cạnh những loài có thể thích nghi được, rất nhiều loài khác không thể thích ứng kịp với tốc độ biến đổi của ngoại cảnh sẽ buộc phải bị tuyệt chủng. Theo các nhà khoa học, biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng cực kỳ mạnh ở các vùng cực và khu vực núi cao.

Khai thác tài nguyên quá độ

Hiện tượng này là do tốc độ khai thác của con người quá lớn so với tốc độ phục hồi của thiên nhiên, và nếu kéo dài, có thể dẫn tới sự tuyệt chủng của rất nhiều loài. Ví dụ như:
  • Nghề săn bắt cá tuyết ở Newfoundland, Canada sẽ không còn nếu con người khai thác nguồn cá ngoài khơi một cách không kiểm soát;
  • Rắn nước ngọt ở Cam-pu-chia có thể sẽ bị tuyệt chủng do săn bắt quá nhiều;
  • Mè núi đá tự nhiên, Encephalartos brevifoliolatus, sẽ không còn do bị khai thác nhiều để làm cảnh;
Khai thác tài nguyên thiên nhiên mà thiếu đi các biện pháp phục hồi hoặc có kế hoạch có thể sẽ trở thành nguyên nhân chính khiến nhiều hệ sinh thái bị tiêu diệt.

Sinh vật ngoại lai xâm hại (Invasive Alien Species- IAS)

Là các loài có khả năng di cư xa khỏi địa bàn sinh sống tự nhiên của nó và có thể đe dọa đến đa dạng sinh học ở ở vực loài đó mới đến. Các loài ngoại lai xâm hại có thể gây nguy hiểm tới các loài bản địa theo nhiều cách, ví dụ như ăn thịt, cạnh tranh nguồn dinh dưỡng, mang theo các mầm bệnh lạ, cạnh tranh khu vực sinh sống,…
Trong nhiều trường hợp, loài ngoại lai không bị các loài ăn thịt ở bản địa tiêu diệt, kích thước quần thể loài mới này có thể tăng lên không kiểm soát. Cạnh tranh nguồn sống và nơi ở với các loài bản địa. Từ đó, nhiều loài sẽ phá hủy cả hệ sinh thái.
Hiện tượng di cư bất thường này có thể là tự nhiên hoặc do các hoạt động của con người. Ví dụ như hành vi đưa loài rùa tai đỏ, cây mai dương, ốc sên, ốc bươu vàng, … vào Việt Nam.

Ô nhiễm môi trường

Đây cũng được xem là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến mất đa dạng sinh học. Ô nhiễm môi trường là do sự phát thải số lượng lớn các chất, như nito và photpho vào môi trường . Có thể chúng là các chất dinh dưỡng thiết yếu cho các hoạt động sống nhưng nếu với số lượng quá nhiều có thể đe dọa để sự phát triển của không chỉ hệ sinh thái biển mà còn cả hệ sinh thái trên cạn. Một minh họa cho hiện tượng này là hành động bón phân hóa học trong trồng trọt, đây là việc làm bình thường của nông dân nhằm làm tăng sản lượng và chất lượng cây trồng, vật nuôi. Nhưng khi hành động này được lặp lại nhiều lần, nó sẽ đe dọa tới sự ổn định của tài nguyên đất và nước, hiện tượng này được gọi là sự phì dưỡng (eutrophication). Sự phì dưỡng trong môi trường nước là do sự tăng nồng độ các chất dinh dưỡng khiến cho các loài tảo và sinh vật phù du phát triển mạnh và tăng nhanh về số lượng, khi đạt đến ngưỡng nhất định, chúng sẽ phát triển lấn át và thậm chí là gây chết đối với các loài thủy sinh vật khác.

Hiện tượng mất đa dạng sinh học có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, cả do tự nhiên lẫn do các hoạt động của con người. Tuy nhiên, thay vì ngồi đổ lỗi cho nhau. Con người cần có các hoạt động cần thiết để góp phần làm chậm lại quá trình này. 

SonSonBio
Nguồn tham khảo: 
The YouthGuide to BioDiversity- FAO 2013