Thứ Năm, 17 tháng 12, 2015

Xét nghiệm Alkaline Phosphatase (ALP) trong máu

Xét nghiệm Alkaline Phosphatase nhằm mục đích kiểm tra hàm lượng enzyme ALP trong máu. Đây là một trong các xét nghiệm thường quy và được thực hiện tại các bệnh viện, phòng khám. Khi kết quả cho thấy trong máu có hàm lượng ALP bất thường thì bạn có thể đã gặp các vấn đề về gan và xương. Tuy nhiên, chỉ số này cũng góp phần phát hiện các khối u thận, suy dinh dưỡng hay một số bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng. Khoảng giá trị ALP bình thường sẽ phụ thuộc vào lứa tuổi, nhóm máu và giới tính.
Đầu tiên, bạn cần hiểu Alkaline Phosphatase là gì? Đây là một enzyme trong máu giúp phá hủy các protein trong cơ thể, chúng tồn tại ở các dạng khác nhau và phụ thuộc vào cơ quan nào sinh ra chúng. Phần lớn ALP sinh ra ở gan, một số khác được sản xuất tại tủy xương, ruột và thận. Ở sản phụ, ALP còn có thể được tổng hợp ở nhau thai.

Vậy chỉ số ALP cho biết gì về cơ thể bạn? Xét nghiệm ALP trong máu nhằm mục đích đánh giá hoạt động chức năng gan và kiểm tra liệu có vấn đề với xương của bạn hay không. Đối với gan, kiểm tra nồng độ ALP là một phần trong xét nghiệm chức năng gan cơ bản. Khi gan bị tổn thương hay bị bệnh, bạn có thể gặp phải các triệu chứng như vàng da, mắt, đau bụng, buồn nôn và nôn. Xét nghiệm ALP là một bước rất quan trọng trong việc chẩn đoán các bệnh như viêm gan, xơ gan, viêm túi mật, tắc ống dẫn mật. Đối với xương, xét nghiệm ALP rất hữu ích trong việc phát hiện các bệnh như còi xương (xương yếu do thiếu Can-xi, phosphate, vitamin D), nhuyễn xương (xương mềm do thiếu vitamin D) và bệnh Paget (rối loạn tổng hợp xương do cơ thể gặp vấn đề về cân bằng giữa tạo xương và hủy xương). Ngoài ra, chỉ số ALP trong máu còn giúp đánh giá sự thiếu hụt vitamin D của cơ thể, sự có mặt của các khối u hay bất thường trong phát triển xương.

Trước khi lấy máu xét nghiệm ALP, bạn không cần phải kiêng ăn bất kỳ thứ gì, tuy nhiên, không nên ăn nhiều trước khi lấy máu, việc này có thể làm ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm. Bên cạnh đó, bạn cũng nên thông báo với bác sĩ về các loại thuốc bạn đang sử dụng do một số loại thuốc chứa các chất làm thay đổi hàm lượng ALP trong máu.

Khi có kết quả, bác sĩ có thể sẽ thông báo với bạn là có nên làm thêm các xét nghiệm khác không, theo Cigna (2010), ngưỡng bình thường của ALP trong máu người trưởng thành là từ 25 đến 100 đơn vị trên một lít máu còn đối với trẻ nhỏ là 350 đơn vị trên một lít máu. Đối với phụ nữ mang thai, giá trị này có thể tăng lên do ALP được sinh ra ở nhau thai. 

Nếu hàm lượng ALP trong máu cao bất thường, chứng tỏ bạn có thể đã mắc các bệnh về gan, túi mật chẳng hạn như viêm gan, xơ gan, ung thư gan, viêm túi mật hay tắc ống dẫn mật, hoặc các bệnh về xương như còi xương, nhuyễn xương, bệnh Paget, ung thư xương hay các bất thường về hoạt động chức năng tuyến cận giáp. Trong một số trường hợp, lượng cao ALP trong máu còn cho thấy các vấn đề về tim mạch, ung thư thận hay nguy hiểm hơn là nhiễm trùng huyết. Trong trường hợp, máu của bạn có nồng độ ALP thấp dưới ngưỡng bình thường thì có thể bạn bị suy dinh dưỡng hoặc thiếu vitamin, khoáng chất.
Biên dịch: Phạm Ngọc Sơn

Nguồn tham khảo:



Thứ Năm, 19 tháng 11, 2015

Công nghệ Peltier

Từ khóa
Mặc dù hiện tượng cảm ứng điện nhiệt đã được phát hiện hơn 150 năm về trước nhưng nó chỉ được áp dụng vào các thiết bị, máy móc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ban đầu, các bộ làm mát nhiệt điện (TECs) được phát triển song song trên cả hai lĩnh vực là điện và quang, đặc biệt là hiển vi điện tử và công nghệ laser.  Nhờ các bộ làm mát này, lĩnh vực hiển vi điện tử đã đạt được các bước tiến đặc biệt quan trọng như đi-ốt laser, đi-ốt siêu quang (superluminescent diodes), các loại cảm biến quang học (DPSS, CCD, FDA và các loại khác).
Về lý thuyết, sự chênh lệch nhiệt độ tại khoảng trống giữa hai chất dẫn điện tạo ra một dòng điện, và ngược lại, nếu có dòng điện chạy trong hai bản cực thì cũng tạo ra sự chênh lệch nhiệt động giữa chúng. Hiện tượng này được đặt theo tên của nhà khoa học người Pháp đã phát hiện ra nó năm 1934 là Jean Peltier (1785-1845). Dựa trên nguyên tắc này, người ta đã tạo ra các module làm mát nhiệt điện. Trái với lý thuyết của Joul, nhiệt năng tỷ lệ thuận với bình phương điện tích:

Q=RI2

Nhiệt Peltier (Qp) sẽ phụ thuộc vào cường độ dòng điện cũng như điện tích theo một đường tuyến tính:

Qp=P.q

Trong đó q là điện tích đi qua khoảng trống giữa hai bản dẫn điện (q=I.t); P là hệ số Peltier, hệ số này đặc trưng cho từng vật liệu và có thể được tính theo công thức:

P=α.T

Với α là hệ số Seedbeck được tính dựa trên khả năng tương tác của vật liệu, đặc tính cũng như nhiệt độ của chúng. T là nhiệt độ tính theo thang Kelvins.


Một module nhiệt điện được cấu thành từ một cặp nhiệt điện (các chân bán dẫn loại N và P), chúng là các đường nối điện giữa hai bản cực song song và được cố định bởi các chân hàn. Xét về cấu tạo cụ thể, một module nhiệt điện thường gồm các phần:

-          Ma trận điều hòa module, các Pellet, chúng thường là các chất bán dẫn như bismuth telluride (BiTe), antimony telluride hay các chất khác, trong đó BiTe được sử dụng chủ yếu trong các bộ làm mát nhiệt điện.

-          Các tấm gốm tạo nên hình dáng cho module đồng thời cũng là điểm tựa cho toàn bộ hệ thống. Chúng phải tuân theo các quy chuẩn rất nghiêm ngặt về khả năng cách điện nhưng phải có khả năng dẫn nhiệt tốt, các tấm gốm có pha nhôm oxit (Al2O3) được sử dụng khá phổ biến do chúng có khả năng dẫn nhiệt tốt song lại có chi phí thấp. Các loại gốm khác có pha nhôm nitrite (AlN) và beryllium oxit (BeO) cũng được sử dụng tương đối nhiều, mặc dù chúng có khả năng dẫn nhiệt tốt hơn gấp năm đến bảy lần so với Al2O3nhưng chúng lại có giá thành cao hơn hẳn. Hơn nữa, công nghệ sử dụng BeO thường khá độc hại.

-          Các tấm dẫn điện liên kết các pellet với nhau. Nhiều dòng thiết bị làm mát nhiệt điện sử dụng các tấm film làm chất dẫn điện (cấu trúc gồm nhiều lớp đồng mỏng) và đặt trên các tấm gốm. Đối với các thiết bị có kích thước lớn và công suất cao, chúng được làm từ các tấm đồng nhằm làm giảm điện trở.


Hoạt động

Bộ làm mát điện nhiệt được mô tả bởi các thông số hoạt động tối đa với nhiệt độ cao (T1). Thường thì họ sử dụng các thông số sau:

ΔTmax: Nhiệt độ khác biệt tối đa tại thời điểm tải nhiệt Q=0
Qmax: khả năng làm mát tối đa ứng với ΔTmax=0
Imax: điên tích của thiết bị ứng với ΔTmax
Umax: Hiệu điện thế tới đa tại ΔTmax
Nhà sản xuất thường chế tạo các thiết bị với nhiệt độ hoạt động ở 270C trong chân không hoặc 500C trong môi trường Ni-tơ.

Đồ thị hoạt động tiêu chuẩn: Đây là thông số kỹ thuật quan trọng của một bộ làm mát điện nhiệt gồm các đồ thị mô tả mối quan hệ giữa Imax, Umax, Qmax và ΔTmax. Các thông số hoạt động và các đồ thị hoạt động tiêu chuẩn được ghi lại bởi nhà sản xuất tại nhiệt độ 3000K và trong môi trường chân không.

Đồ thị hoạt động tối ưu: Đây là các thông số kỹ thuật của thiết bị khi hoạt động với hiệu suất tối đa.

Hệ số chất lượng: Các thông số khác như độ dẫn nhiệt, điện trở và hệ số Seebeck là các thông số quan trọng nhằm mô tả đặc tính của vật liệu chế tạo nhưng chúng lại không được liệt kê trong bảng thông số kỹ thuật của các bộ làm mát nhiệt điện thương mại. Để mô tả chúng, người ta sử dụng đại lượng Z:
Z = (α2)/(kR)
Z thường dao động trong khoảng 2,5 – 3,2 x 10-3 K-1. Sau khi  biết được giá trị Z, người ta có thể ước lượng ΔTmax của một bộ làm mát một tầng nhờ công thức
ΔTmax = (1/2).Z.T02

Tuổi thọ: Các dòng bộ làm mát nhiệt điện thương mại thường có tuổi thọ khá dài, từ 250,000 đến 350,000 giờ sử dụng trong điều kiện bình thường. Các con số này phụ thuộc rất lớn vào công nghệ chế tạo và vật liệu chế tạo. Trong nhiều lĩnh vực, bộ làm mát nhiệt điện là một bộ phận thiết yếu do chúng có thể điều chỉnh nhiệt độ và khả năng hoạt động của máy, đây là lý do vì sao việc kiểm tra tuổi thọ của bộ làm mát nhiệt điện luôn được xem trọng trong quá trình sản xuất.

Lựa chọn module nhiệt điện:

Việc lựa chọn module nhiệt điện dựa trên các thông số hoạt động như:
-          ΔT: Biên độ nhiệt độ hoạt động
-          Q: Khả năng làm lạnh
-          I: Điện tích hoạt động
-          U: Điện thế hoạt động
Phụ thuộc vào các nhóm (đơn tầng hay đa tầng), có các loại module với các khả năng làm lạnh khác nhau. Khả năng làm lạnh phụ thuộc vào số pellet sử dụng cũng như hình dạng cấu tạo của module. Đối với các dòng module có pellet ngắn, chúng có khả năng làm mát cao nhưng lại tiêu thụ điện nhiều và điện tích hoạt động cũng cao. Các dòng có pellet nhỏ thì biên độ nhiệt thay đổi cao và tiêu thụ ít điện năng hơn nhưng khả năng làm mát lại tương đối thấp. Nếu xem xét một cách nghiêm ngặt nguồn điện cung cấp, việc lựa chọn module sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều.

Tháp làm mát (module đa tầng)
Trên thực tế, tuổi thọ sử dụng của các linh kiện nhiệt điện lạnh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như cách thức thiết kế tháp, vật liệu sử dụng để tạo khả năng tiếp xúc nhiệt tố cũng như tối thiểu hóa sự kháng nhiệt.

Tháp cơ khí: module nhiệt điện được đặt giữa hai vùng chênh lệch nhiệt độ. Thiết kế dạng sandwich được cố định bởi các đinh vít hay bằng các phương thức cơ khí khác. Kỹ thuật này cho phép lắp ráp tháp làm mát một cách nhanh chóng cũng như thuận tiện cho việc tháo rời khi cần thiết, do đó chúng được sử dụng để tạo các bộ làm mát kích thước lớn.

Tháp hàn: Đây là phương pháp chế tạo phổ biến nhằm tạo các bộ làm mát kích thước nhỏ. Phương pháp này tạo cho module một lớp vỏ kim loại bề mặt (mặt nóng và mặt lạnh). Khi hàn, bộ làm mát nhiệt điện được đốt nóng trong thời gian ngắn ở nhiệt độ rất cao. Do đó, điểm nóng chảy phần hàn bên ngoài phải luôn thấp hơn phần hàn bên trong của module và thời gian hàn cần thu lại càng ngắn càng tốt để giảm thời gian quá tải nhiệt. Thông thường, phương pháp này không được áp dụng cho việc tạo các thiết bị có kích thước quá 18 mm do chúng có thể gây quá tải nhiệt, trong trường hợp bắt buộc, nhà chế tạo phải lựa chọn vật liệu một cách cẩn trọng.

Tháp dán: đây là phương pháp được sử dụng rất phổ biến do tính đơn giản của nó. Thông thường, các cầu epoxy sẽ được lấp đầy bởi các chất có tính dẫn nhiệt cao như bột than chì, bạc, silicon nitrite (SiN), hoặc các chất khác. Tuy nhiên, cần rất thận trọng khi chọn vật liệu, đối với một số cầu epoxy có nhiệt độ hoạt động thấp, không nên dùng chúng làm linh kiện trong các máy có nhiệt độ hoạt động cao. Đây cũng không phải một phương pháp thích hợp cho các lĩnh vực cần độ chân không cao do cầu epoxy có thể tạo ra sự dò khí.

Biên dịch: Phạm Ngọc Sơn

Nguồn:


TEC Microsystems: http://www.tec-microsystems.com/EN/Home.html

Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2015

Lý thuyết trò chơi trong tiến hóa

Từ khóa
1.       Lịch sử hình thành

R.A.Fisher được xem là người đầu tiên áp dụng lý thuyết trò chơi vào sinh học tiến hóa (The Genetic Theory of Nature Selection- Tạm dịch “Lý thuyết di truyền của chọn lọc tự nhiên” (1930)), trong công trình của mình, ông đã cố gắng thử giải thích sự cân bằng về tỷ lệ giới tính trong quần thể động vật có vú. Một vấn đề được đặt ra là vì sao tỷ lệ giới tính luôn cân bằng hoặc xấp xỉ vậy, không bao giờ có sự chênh lệch quá lớn về một giới nào đó. Fisher thấy rằng việc tính toán số cá thể trong quần thể phù hợp để thu được con số mong muốn ở đời cháu phụ thuộc rất lớn vào sự phân bố giới tính trong quần thể ban đầu. Khi số lượng cá thể cái trong quần thể tăng mạnh thì kéo theo đó, số lượng cá thể đực cũng tăng cao và ngược lại. Fisher chỉ ra rằng, trong các trường hợp cụ thể, động học tiến hóa (evolutionary dynamics) thường dẫn đến sự cân bằng giới tính. Thực tế cho thấy rằng, sự cân bằng quần thể phụ thuộc rất lớn vào tần số giới tính trong quần thể ban đầu.

Các luận cứ của Fishers cho rằng có thể sử dụng lý thuyết trò chơi để giải thích các vấn đề. Năm 1961, R.C.Lewontin lần đầu áp dụng lý thuyết trò chơi vào sinh học tiến hóa trong công trình “Tiến hóa và các nguyên lý trò chơi”. Năm 1972, Maynard Smith đã đưa ra khái niệm chiến lược tiến hóa bền vững (Evolutionarily stable strategy – ESS) trong công trình “Lý thuyết trò chơi và cuộc chiến sinh tồn” – Game Theory and the Evolution of Fighting. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ trở nên phổ biến từ năm 1973, khi công trình Logic các xung đột của động vật (The Logic of Animal Conflict) của Maynard Smith và Price. Sau đó, kể từ năm 1984, với công trình “Sự tiến hóa của hợp tác” (Evolution of Cooperation), Robert Axelrod đã thổi bùng công cuộc nghiên cứu sinh thái và khoa học xã hội dưới góc nhìn của Lý thuyết trò chơi về Tiến hóa.

2    2. Tiếp cận lý thuyết trò chơi trong tiến hóa

Có hai con đường để nghiên cứu lý thuyết trò chơi trong tiến hóa. Cách đầu tiên là đi theo con đường của Maynard Smith và Price với việc sử dụng chiến lược tiến hóa bền vững như một công cụ cơ bản để phân tích. Cách tiếp cận thứ hai là xây dựng một mô hình rõ ràng về sự thay đổi chiến lược trong quần thể và nghiên cứu các đặc điểm của động học tiến hóa theo mô hình tần số đó.

2.1. Tiến hóa bền vững

Như một ví dụ cụ thể về cách tiếp cận đầu tiên, Maynard Smith và Price đã phân tích trò chơi Diều hâu- Bồ câu trong công trình “Logic các xung đột của động vật”. Trong trò chơi này, hai cá thể cạnh tranh nhau về nguồn lợi cố định V và từng cá thể có quyền lựa chọn một trong hai chiến thuật như sau:

Diều hâu: Với tập tính hung hăng sẽ tấn công liên tục cho đến khi một trong hai bên bị thương
Bồ câu: Lập tức rút lui khi đối phương có động thái tấn công

Ta giả sử rằng cả hai cá thể đều chọn lối chơi Diều hâu, kết quả là cả hai bên sẽ chịu một tổn thất tương đương nhau, cái giá phải trả cho cả hai bên có giá trị là C. Trong trường hợp Diều hâu gặp Bồ câu, Bồ câu sẽ lập tức rút lui và Diều hâu sẽ chiếm được nguồn lợi để tồn tại. Trường hợp cuối cùng, khi hai Bồ câu gặp nhau, chúng sẽ chia sẻ nguồn lợi và cùng chung sống. Ta có thể tóm tắt lại thành mô hình sau:


Diều hâu
Bồ câu
Diều hâu
(1/2)*(V-C)
V
Bồ câu
0
V/2

Có thể nói rằng, nếu tất cả cá thể trong quần thể đều chỉ đi theo một chiến lược mà không có bất kỳ đột biến nào xảy ra thì khi điều kiện sống thay đổi, khả năng quần thể bị tuyệt diệt là rất lớn. Giả sử, ΔF(s1, s2) là độ thích ứng của quần thể khi áp dụng chiến lược s1 chống lại quần thể đối địch với chiến lược s2, và đặt F(s) là tổng độ thích ứng của quần thể khi áp dụng chiến lược s, F0 là cấu trúc quần thể ban đầu. Nếu σ là chiến lược tiến hóa bền vững và µ là chiến lược gây hấn thì ta có:

F(σ) = F0+ (1 – p) ΔF(σ, σ) + p ΔF(σ, µ)
F(µ) = F0+ (1 – p) ΔF(µ, σ) + p ΔF(µ, µ)

Với p là tỷ lệ quần thể khi áp dụng chiến lược µ
Do σ là chiến lược tiến hóa bền vững, khả năng  thích ứng của quần thể áp dụng chiến lược σ sẽ phải lớn hơn khả năng thích ứng của quần thể áp dụng chiến lược μ. Bây giờ, khi p tiệm cận đến 0, lúc đó ta có:

ΔF(σ,σ) > ΔF(μ,σ)
Hay                                                       
ΔF(σ,σ) = ΔF(μ,σ) và ΔF(σ,μ) > ΔF(μ,μ)

Nói khác, điều này có nghĩa là chiến lược σ là chiến lược tiến hóa bền vững khi thỏa mãn một trong hai điều kiện: (1) chiến lược σ tốt hơn bất kỳ chiến lược nào khác chống lại nó, hoặc (2) một số biến dị có thể tương đương với σ nhưng không thể làm tốt được như σ. Như vậy, trong trò chơi Diều hâu- Bồ câu, chiến lược Bồ câu không phải là một chiến lược tiến hóa bền vững do quần thể chỉ toàn Bồ câu có thể bị tiêu diệt bởi một quần thể Diều hâu. Nếu giá trị V lớn hơn C thì chiến lược Diều hâu là một chiến lược tiến hóa bền vững do trong trường hợp đó, nguồn lợi thu được có thể bù đắp toàn bộ tổn thất C khi cạnh tranh. Tuy nhiên nếu V nhỏ hơn C thì không có chiến lược tiến hóa bền vững nếu quần thể chỉ theo đơn thuần một chiến lược, cần phải có sự đan xen chiến lược để thu được một chiến lược tiến hóa tốt nhất.

Trong các nghiên cứu của Maynarn Smith và Price, khái niệm về các giải pháp đan xen được phát triển, trong đó, hai ý tưởng quan trọng nhất là “tập hợp tiến hóa bền vững” (evolutionarily stable set) và “giới hạn chiến lược tiến hóa bền vững” (limit ESS). Các công trình của họ đã đưa ra một sự tổng hợp các khái niệm về chiến lược tiến hóa bền vững và sau đó mở rộng khái niệm chiến lược tiến hóa bền vững thành các trò chơi đối kháng.

2.2.  Động học của quần thể

Một ví dụ điển hình cho lối tiếp cận thứ hai là trò chơi Thế lưỡng nan của người tù. Trong trò chơi này, các cá thể có hai chiến lược để lựa chọn, là “Hợp tác” và “Đào ngũ”. Dưới đây là ma trận các trường hợp xảy ra của trò chơi này:


Hợp tác
Đào ngũ
Hợp tác
(R, R’)
(S,T’)
Đào ngũ
(T, S’)
(P, P’)

Trong đó, T > R > P > S và T’ > R’ > P’ > S’.

Đầu tiên, hãy giả sử rằng quần thể này đủ lớn, trong trường hợp này, chúng ta có thể biểu diễn sự bền vững của quần thể bằng các tỷ lệ hợp tác pc và tỷ lệ đào ngũ pd. Khi đó, độ tương thích trung bình của cả quần thể khi hợp tác là Wc và khi đào ngũ là Wd, W là độ tương thích trung bình của cả quần thể.

Wc= F0 + pcΔF(C,C) + pdΔF(C,D)
Wd= F0 + pcΔF(D,C) + pdΔF(D,D)
W = pcWc + pdWd

Thứ hai, nếu giả thiết rằng tỷ lệ quần thể theo chiến lược hợp tác và đào ngũ trong lần chơi kế tiếp có liên quan đến tỷ lệ hợp tác và đào ngũ ở lần chơi này thì ta có:



Độ thích ứng của quần thể là:

c= F0 +  pcΔF(C,C) + pdΔF(C,D)
      = F0 +  pcR  + pdS
Wd= F0 +  pcΔF(D,C) + pd ΔF(D,D)
      = F0 + pcT + pdP

Do T > R và P > S nên Wd > Wc và Wd > W > Wc. Điều này có nghĩa là:





Do đó, tỷ lệ chọn chiến lược ở các thế hệ tiếp sau sẽ là:





Theo thời gian, quần thể lựa chọn chiến lược hợp tác có thể sẽ bị tuyệt chủng.

Các mô hình trên đây chứng minh rằng, mặc dù có thể tồn tại một số lượng rất lớn các trường hợp có thể xảy ra nhưng cả hai cách tiếp cận đều hướng đến một kết luận chung là chiến lược tiến hóa tốt sẽ giúp các loài không bị tuyệt chủng.

Biên dịch: Phạm Ngọc Sơn
Nguồn:


Stanford Encyclopedia of Philosophy: http://plato.stanford.edu/index.html

Chủ Nhật, 25 tháng 10, 2015

Điểm khác biệt giữa cảm biến CCD và CMOS

Từ khóa
1.     Giới thiệu về cảm biến hình ảnh

Khi hình ảnh được ghi lại bằng camera, ánh sáng sẽ đi qua len kính và bị chặn lại ở cảm biến hình ảnh. Cảm biến này gồm các điểm ảnh (pixel), chúng sẽ ghi nhận lượng ánh sáng đi vào và biến đổi luồng ánh sáng này thành các tín hiệu điện tương ứng (các electron). Ánh sáng càng mạnh thì lượng electron sinh ra càng nhiều, các electron này sẽ tạo ra điện áp và chuyển thành các tín hiệu số thông qua bộ chuyển đổi A/D.

Hiện nay, có hai công nghệ được sử dụng làm cảm biến hình ảnh trong camera là CCD (thiết bị tích điện kép) và CMOS (chất bán dẫn bổ sung oxide kim loại) (Hình 1). Các thiết bị này có thế mạnh và yếu điểm riêng, tùy mục đích mà nhà sản xuất có thể linh hoạt sử dụng cho phù hợp.




Lọc màu

Các cảm biến hình ảnh ghi nhận lượng ánh sáng đi vào từ sáng tới tối nhưng lại không thể ghi lại chính xác màu sắc của ánh sáng. Do đó, cảm biến CCD và CMOS là các cảm biến “mù màu”, bộ lọc được đặt trước các cảm biến để phân bổ ánh sáng cho từng điểm ảnh. Hai phương pháp ghi nhận màu sắc phổ biến là RGB (Red, Green, and Blue- Đỏ, lục và lam) và CMYG (Cyan, Magenta, Yellow, and Green- màu lá mạ, đỏ tươi, vàng và lục). Đỏ, lục và làm bản thân chúng là các màu cơ bản, khi được trộn vào nhau, chúng tạo ra các thứ cấp khác.

Bộ lọc Bayer là một dòng lọc RGB phổ biến nhất hiện nay (Hình 2). Do cấu tạo mắt người có nhiều thụ thể màu lục hơn nên bộ lọc Bayer sẽ có nhiều điểm lọc màu lục hơn hai màu còn lại, việc này giúp cho người xem có thể ghi nhận và đánh giá hình ảnh một cách tốt hơn. Đối với các dòng bộ lọc CMYG, chúng sẽ bổ sung các bộ lọc màu vào cảm biến thông qua sự kết hợp các điểm lọc màu lục với các điểm lọc màu xanh lá mạ, đỏ tươi, vàng để tạo thành bộ lọc màu CMYG (Hình 2). Hệ thống CMYG thường cho ra tín hiệu có độ phân giải cao hơn phụ thuộc vào độ rộng quang phổ của ánh sáng tới. Tuy nhiên, các tín hiệu  này phải được chuyển đổi thông qua bộ RGB, do đó, đây được xem là bộ cho ra hình ảnh cuối. Bộ lọc màu CMYG thường được sử dụng để liên kết các cảm biến hình ảnh CCD, trong khi hệ thống RGB thường được sử dụng trong các cảm biến quét hình ảnh hiện đại.

2.     Công nghệ CCD

Trong cảm biến CCD, ánh sáng (điện tích) sau khi va vào các điểm ảnh trên chip của cảm biến được chuyển đi thông qua một hay một vài cổng tín hiệu ra. Các dòng điện tích được biến đổi thành các mức điện áp, vật đệm và cho ra dưới dạng các tín hiệu số (Hình 3).

Công nghệ CCD được phát triển nhằm nâng cao chất lượng hình ảnh, các cảm biến CCD đã được sử dụng trong vòng hơn 30 năm gần đây. Công nghệ này có những ưu việt hơn so với các cảm biến CMOS như nhạy sáng hơn và ít bị nhiễu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự khác biệt này đang được thu ngắn lại.

Bên cạnh các thế mạnh, cảm biến CCD cũng tồn tại các hạn chế  như chúng cần nhiều các mạch điện bên ngoài cảm biến. Việc tiêu thụ nhiều năng lượng kéo theo các vấn đề về nhiệt trong camera, việc này không chỉ làm ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh mà còn làm gia tăng chi phí cho sản phẩm.

Cảm biến CCD còn cần lượng dữ liệu rất lớn, do đó tất cả các dữ liệu đều phải đi qua một hay nhiều  bộ khuếch đại tín hiệu.

3.     Công nghệ CMOS

Trong thời gian đầu, các con chip CMOS được sử dụng để ghi hình nhưng chất lượng hình ảnh không cao do các con chip này có độ nhạy sáng không cao. Các cảm biến CMOS hiện đại sử dụng các công nghệ đặc biệt giúp nâng cao chất lượng hình ảnh và độ nhạy sáng một cách đáng kể.

Các chip CMOS có rất nhiều điểm tích cực, không giống như cảm biến CCD, chip CMOS tích hợp với các bộ khuếch đại tín hiệu và các bộ chuyển đổi A/D giúp làm giảm chi phí của camera (Hình 4). Tất cả các điểm ảnh CMOS đều chứa các bộ chuyển đổi điện tử. So với cảm biến CCD, cảm biến CMOS khả năng phân tích tốt hơn, tuy nhiên, việc tích hợp mạch điện vào bên trong con chip có thể dẫn tới các khả năng gây nhiễu tín hiệu. Cảm biến CMOS có khả năng đọc hình ảnh nhanh hơn, tiêu thụ điện năng ít và có kích thước nhỏ hơn nhiều so với cảm biến CCD.

Việc kiểm tra cảm biến CMOS trong sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn hơn so với cảm biến CCD, nhưng với sự phát triển của công nghệ, các nhà sản xuất đã thiết kế giúp các cảm biến CMOS có thể tự kiểm tra lại.

Cảm biến CMOS có khả năng đọc từng điểm ảnh do chúng có thể đọc từng phần của phẩm cảm biến thay vì chỉ đọc toàn vùng cảm biến trong một lần. Phương pháp này giúp nâng cao tỷ lệ khung đọc và nhờ đó, người sử dụng có thể sử dụng các chức năng PTZ (camera có thể quét xoay tròn, nghiêng lên-xuống và thu-phóng hình ảnh- pan/tilt/zoom). Đồng thời, nhờ khả năng đọc từng điểm ảnh, cảm biến CMOS còn có thể khoanh vùng đọc hình ảnh trên cảm biến.



4.     Các điểm khác biệt cơ bản

Cảm biến CMOS là cảm biến liên hợp với bộ khuếch đại, bộ chuyển đổi A/D và thường có một mạch điện nhỏ bổ sung, trong khi đó, cảm biến CCD với khả năng xử lý nhiều tín hiệu bên ngoài cảm biến. Cảm biến CMOS còn tiêu thụ lượng điện năng thấp hơn rất nhiều so với cảm biến CCD, điều này đồng nghĩa với việc nhiệt độ trong camera thấp hơn. Song , cũng chính do việc tích hợp nhiều bộ phận trong cảm biến nên bộ CMOS thường có nhiều tín hiệu nhiễu hơn.

Bên cạnh việc tích hợp linh kiện, cảm biến CMOS còn có thể khoanh vùng khung đọc, điều mà cảm biến CCD không thể thực hiện. Một cảm biến CCD thường có một bộ chuyển đổi điện tích-điện áp cho một cảm biến trong khi đối với cảm biến CMOS, từng điểm ảnh đều có bộ chuyển đổi riêng, do đó cải thiện tốc độ đọc dữ liệu.

Như vậy, cả hai loại cảm biến CCD và CMOS đều có những điểm mạnh và điểm hạn chế riêng, nhưng với sự phát triển của công nghệ đã khiến việc lựa chọn nên sử dụng cảm biến nào dần trở nên không cần thiết. Mục tiêu duy nhất hiện nay của các nhà sản xuất camera là nâng cao chất lượng hình ảnh và đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng.

Biên tập: Phạm Ngọc Sơn

Nguồn: http://www.axis.com/global/en/

Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

Herpes sinh dục

Herpes sinh dục là gì?

Herpes sinh dục là tên một loại bệnh lây truyền qua đường tình dục (STD- sexually transmitted disease) do virus Herpes chủng 1 (HSV-1) hay chủng 2 (HSV-2) gây ra. Đây là một loại bệnh rất phổ biến ở Mỹ, Trung tâm kiểm soát bệnh (CDC-Centers for Disease Control) của Mỹ ước tính rằng, hàng năm, có tới 776,000 người mới mắc Herpes, tính riêng trên nước Mỹ. Trên thế giới, có 15,5% người có độ tuổi từ 14 đến 19 đã nhiễm HSV-2, chưa tính số người nhiễm HSV-1. Càng về các thập kỷ gần đây, số người mắc Herpes sinh dục do HSV-1 gây ra ngày càng tăng nhanh.

Virus có thể lây từ nam sang nữ hoặc ngược lại. Thống kê cho thấy, việc lây nhiễm HSV-2 thường xảy ra với người da trắng không có gốc Tây Ban Nha (41,8%), trong khi đối với người da đen không có gốc Tây Ban Nha chỉ là 11,3%. Đa số những người mắc bệnh đều không biết rằng mình đã nhiễm virus. Ở Mỹ, ước tính rằng có 87,4% bệnh nhân trong độ tuổi từ 14 đến 19 đã bị nhiễm HSV-2 mà chưa có các dấu hiệu lâm sàng cụ thể.

Các con đường lây nhiễm

Việc lây nhiễm virus có thể qua các con đường như qua vết thương hở, các dịch nhầy, dịch tiết tuyến sinh dục hay dịch tiết từ miệng. Cả HSV-1 và HSV-2 có thể được phát tán qua da, mặc dù có thể vùng da này không có dấu hiệu gì đặc biệt. Thông thường, một người có thể bị nhiễm HSV-2 qua sự cọ sát da trong quá trình giao cấu với người đã nhiễm HSV-2. Do đó, nhiều người đã không nhận thức được 
mình đã nhiễm bệnh và tiếp tục phát tán virus cho những người xung quanh.

Các triệu chứng của bệnh

Đa số bệnh nhân nhiễm HSV-1 và HSV-2 đều không có các triệu chứng rõ ràng, khó nhận biết và có thể gây nhầm lẫn với các bệnh về da khác. Thống kê cho thấy, 86,4% bệnh nhân nhiễm bệnh vẫn chưa nhận thức được tình trạng của mình. Một triệu chứng có thể dễ nhận biết là người bệnh thường sẽ có các mụn nước mọc trên hoặc xung quanh cơ quan sinh dục hoặc xung quanh miệng. Thời gian ủ bệnh trung bình sau khi phơi nhiễm là khoảng 4 ngày ( cụ thể là từ 2 đến 12 ngày). Khi các mụn nước vỡ ra có thể gây đau và loét mà có thể mất 2-4 tuần để khỏi.

Các dấu hiệu lâm sàng của Herpes sinh dục thay đổi giữa lần đầu và các lần nhiễm lại. Lần đầu, các thương tổn có thể mất nhiều thời gian để hồi phục,và virus lan ra một cách nhanh chóng, các triệu chứng thường thấy như sốt, đau nhức toàn thân, xuất hiện các mụn nước và đau đầu. Trong khi đó, gần một nửa số bệnh nhân mắc lại có các triệu chứng như ngứa nhẹ, đau nhói ở chân, hông và mông, các triệu chứng này xuất hiện trước nhiều giờ hoặc nhiều ngày trước khi xuất hiện các thương tổn do Herpes. Các triệu chứng có thể kéo dài đối với lần đầu nhiễm và ngày càng ngắn đi sau các lần nhiễm lại. Mặc dù virus có thể tồn lại trong cơ thể nhưng tần suất tái phát sẽ ngày càng giảm dần. Người bệnh bị nhiễm lại chủ yếu là do HSV-2.

Các  biến chứng của bệnh

Herpes sinh dục có thể gây ra các vết loét ở cơ quan sinh dục và gây đau, đặc biệt là đối với người có hệ miễn dịch yếu, chẳng hạn như người nhiễm HIV. Cả HSV-1 và HSV-2 đều có thể gây ra các biến chứng như mù, viêm não và viêm màng não nhưng với tần suất không cao. Nhiều trường hợp, các thương tổn có thể lan ra vùng mông, háng, đùi, ngón tay và mắt. Một trong những biến chứng nghiêm trọng của Herpes sinh dục là việc truyền Herpes từ mẹ sang con. Một điều chắc chắn là các nhân viên chăm sóc sức khỏe sinh sản sẽ hỏi người mẹ đã có tiền sử bị Herpes sinh dục hay chưa do virus Herpes có thể truyền từ mẹ sang con trong quá trình mang thai, khi sinh hoặc thậm chí trong giai đoạn sau khi trẻ chào đời. Nếu trong thời gian mang thai, người mẹ bị nhiễm Herpes sinh dục lần đầu thì đứa trẻ có nguy cơ rất cao bị lây từ người mẹ, nguy cơ này sẽ giảm đi nếu  người mẹ bị nhiễm Herpes lại, do đó, người mẹ cần tránh tất cả các tiếp xúc có thể lây nhiễm Herpes trong thời kỳ mang thai. Một giải pháp khá hữu hiệu là người mẹ nên kiêng quan hệ tình dục trong 3 tháng cuối của thai kỳ, đặc biệt là khi người chồng có thể đã nhiễm Herpes sinh dục. Ngoài ra, thai phụ cũng có thể sử dụng các thuốc chống virus trong 36 tuần thai nghén nhằm làm giảm khả năng nhiễm Herpes lại. 

Liệu có giải pháp điều trị dứt điểm Herpes sinh dục?

Hiện tại chưa có phương pháp nào giúp chữa khỏi hoàn toàn Herpes sinh dục, thuốc chống virus chỉ có tác dụng ngăn ngừa hay làm ngắn thời gian phát bệnh chứ không thể điều trị dứt điểm. Đã có rất nhiều các thử nghiệm lâm sàng để kiểm tra khả năng chống lại virus Herpes bằng vac-xin, nhưng đến nay vẫn chưa có vac-xin nào có thể bảo vệ con người khỏi việc nhiễm Herpes. Một vac-xin đã được kiểm tra cho thấy khả năng chống lại HSV-2 ở phụ nữ, song loại vac-xin này lại bất lực trước HSV-1 và không có hiệu quả đối với nam giới. Ngoài ra, còn có một chủng vac-xin có tác dụng ngược lại, chỉ có thể chống lại HSV-1 nhưng lại không thể bảo vệ con người khỏi HSV-2.

Các biện pháp bảo vệ bản thân

Một biện pháp hữu hiệu giúp con người có thể giảm thiểu nguy cơ nhiễm Herpes sinh dục là sử dụng bao cao su, tuy nhiên bao cao su lại không thể bao kín toàn bộ các vùng thương tổn do virus Herpes sinh ra. Ngoài ra, việc tuân thủ chính sách một vợ một chồng cũng là một biện pháp giúp hạn chế lây nhiễm Herpes nhưng đòi hỏi người chồng hoặc vợ không bị nhiễm Herpes sinh dục. Người bị nhiễm Herpes sinh dục cũng không nên quan hệ tình dục khi đang có các dấu hiệu của bệnh, bất kể là dấu hiệu nhiễm lần đầu hay nhiễm lại.

Biên tập: Phạm Ngọc Sơn

Nguồn:

[1] CDC. Sexually Transmitted Disease Surveillance: www.cdc.gov/std

Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015

Candida Albicans- mối nguy hiểm tiềm ẩn


Candida Albicans là một chủng nấm cơ hội và là nguyên nhân của nhiều triệu chứng như mệt mỏi, sụt cân, đau nhiều nơi và có cảm giác như say rượu. Chủng nấm này là nguyên nhân của hai loại nhiễm khuẩn ở người là phơi nhiễm (nấm khoang miệng và nấm âm đạo) và nhiễm khuẩn hệ thống.

Đa số mọi người đều có Candida Albicans ký sinh trong ruột và một số trường hợp là có các thành viên khác thuộc chi Candida trong cơ thể, theo các nghiên cứu thì 70% dân số thế giới có chi Candidaký sinh trong cơ thể. Bình thường, C.albicanstrong cơ thể tồn tại với một số lượng cho phép và được kiểm soát bởi các vi khuẩn đường ruột khác trong cơ thể người, tuy nhiên, khi hệ miễn dịch trở nên suy yếu, chúng làm yếu thành ruột và trực tiếp đi vào đường máu và liên tục tạo ra các chất độc cho cơ thể vật chủ. Sự tăng sinh của Candida Albicans làm tăng lượng độc tố sinh ra khiến cho hệ miễn dịch vốn đã suy yếu lại phải tiếp tục chống lại độc chất, khi đó người bệnh sẽ thấy đau đầu, mệt mỏi, gặp những cơn đau bất thường và có thể dẫn đến trầm cảm. Một trong các độc chất mà chủng nấm này thải ra Acetaldehyde, một loại độc tố có thể làm thay đổi hoạt động của các gốc tự do trong cơ thể, khi đến gan, chất này bị biến đổi thành ethanol (rượu). Một vài bệnh nhân cho biết họ cảm thấy giống như đang say và mệt mỏi do có lượng lớn ethanol trong cơ thể. Ngoài ra, theo IARC (International Agency for Research on Cancer) năm 1999, có rất nhiều bằng chứng cho thấy Acetaldehyde là nguyên nhân gây ra ung thư sau khi làm thí nghiệm trên động vật. Chẳng hạn như các con chuột và hamster hít phải Acetaldehyde có thể bị ung thư thanh quản và ung thư niêm mạc mũi, khi cho động vật uống nước chứa Acetaldehyde trong thời gian dài có thể dẫn tới sự phát triển quá mức của các tế bào nhầy phủ bên trong ống tiêu hóa.

Khi C.albicans đầu tăng sinh mất kiểm soát do có sự thay đổi về thể chất của vật chủ, việc thay đổi này có thể do người bệnh đang sử dụng kháng sinh, có chế độ ăn giàu đường, carbohydrate, hay là đơn giản là do áp lực công việc. Nếu bệnh nhân có các dấu hiệu của việc tăng sinh mất kiểm soát C.albicans, đầu tiên bác sĩ  nên hỏi về các thói quen của bệnh nhân và cân nhắc các khía cạnh sau: bệnh nhân có đang sử dụng thuốc kháng sinh? Bệnh nhân có thường xuyên quan hệ tình dục qua đường miệng? Hay bệnh nhân có chế độ ăn giàu đường và carbohydrate? Bệnh nhân có sử dụng cồn hay bị áp lực trong công việc? Các câu hỏi trên là một bước rất quan trọng trong việc chuẩn đoán bệnh. Trong nhiều trường hợp, bác sĩ không nhận ra bệnh do Candidiasis gây ra, các triệu chứng  của bệnh có thể nhầm lẫn sang bệnh tưa lưỡi ở trẻ em hoặc các bệnh truyền nhiễm qua đường âm đạo.

Trong một vài thập kỷ gần đây, số các bệnh nhân gặp các vấn đề liên quan tới chi Candida tăng lên một cách chóng mặt, một phần là do lối sống hiện đại với chế độ ăn nhiều đường và carbohydrate (nguyên nhân gia tăng số bệnh nhân bị béo phì và tiểu đường). Bên cạnh đó còn do người lao động luôn phải đối áp lực công việc cao và nghỉ ngơi không hợp lý. Sự căng thẳng trong công việc khiến cơ thể sản sinh ra Cortisol, một loại hormone làm yếu hệ miễn dịch và nâng đường huyết, đây là một môi trường cực kỳ lý tưởng cho C.albicans tăng sinh. Ngoài ra còn do việc sử dụng không kiểm soát các loại kháng sinh. Thuốc kháng sinh sẽ tiêu diệt gần như toàn bộ vi sinh vật ở ống tiêu hóa, bao gồm cả lợi khuẩn và hại khuẩn. Khi các lợi khuẩn bị tiêu diệt, đây là cơ hội để các loài vi sinh có khả năng sinh sản nhanh vươn lên chiếm ưu thế, đặc biệt là Candida Albicans. Do đó, cần có sự hướng dẫn của bác sĩ để sử dụng thuốc kháng sinh một cách phù hợp. Song, ở Việt Nam, phần lớn thuốc kháng sinh vẫn được bán mà không cần kê đơn với tỷ lệ 88% ở thành thị và 91% ở nông thôn.

Biên tập: Phạm Ngọc Sơn

Nguồn:
[1] Helmut K. Seitz, M.D., and Peter Becker, M.D.:” Alcohol Metabolism and Cancer Risk”, National Institure on Alcohol Abuse and Alcoholism.
[2] The Candida Diet: http://www.thecandidadiet.com
[3] François L. Mayer, Duncan wilson, Bernhard Hube:” Candida Albicans pathogenicity mechanisms”, Virulence 4:2, 119–128; February 15, 2013.

Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2015

Escherichia coli và các vấn đề về sức khỏe

Escherichia coli (E.coli) là tên một vi khuẩn sống trong ống tiêu hóa của người và động vật. Có rất nhiều chủng E.coli và đa số chúng là các vi sinh vật gây hại. Dòng E.coli thường gặp nhất là E.coli O157:H7, chúng có khả năng sinh ra độc tố Shiga (STEC-Shiga-toxin producing E.coli- Độc tố Shiga do E.coli sinh ra). Người nhiễm chủng E.coli này có thể có các triệu chứng như thiếu máu, hay suy thận và có thể gây tử vong. Các chủng E.coli khác có thể gây nhiễm trùng ống dẫn nước tiểu và các bệnh nhiễm trùng khác.
Người bệnh có thể nhiễm E.coli do tiếp xúc với phân của người hay động vật, hoặc người bệnh uống hay ăn phải thực phẩm không đảm bảo vệ sinh, vô tình chứa lượng nhỏ phân trong đó. Ngoài ra E.coli có thể nhiễm vào thịt trong quá trình chế biến. Đây là con đường lây nhiễm mà người Mỹ hay mắc phải, đặc biệt, bất kỳ thực phẩm nào sau khi tiếp xúc với thịt tươi sống cũng có thể trở thành nguồn gây bệnh. Để đảm bảo tiêu diệt vi khuẩn có trong thịt, người sử dụng nên đun thịt ở nhiệt độ trên 710C (1600F) trước khi ăn.
Một số loại thực phẩm khác cũng lây truyền E.coli như sữa nguyên chất, chưa qua xử lý và các sản phẩm từ sữa. Vi khuẩn có thể lan từ bầu vú của bò sang sữa và lây nhiễm cho con người. Người dùng nên kiểm tra nhãn mác của sản phẩm để đảm bảo sữa đã được kiểm nghiệm và đánh dấu “tiệt trùng” (có nghĩa là thực phẩm đã được gia nhiệt để diệt khuẩn). Rau củ quả sống cũng là một nguồn lây nhiễm E.coli, có thể do người trồng đã sử dụng phân tươi để bón hoặc rau củ không được bảo quản hợp vệ sinh.
Phân người và động vật nhiễm E.coli có thể bị thải ra ao, hồ và các nguồn nước khác. Do E.coli có thể lan truyền từ người này qua người khác thông qua đường miệng hay đường ăn uống nên mọi người có thể vô tình bị lây nhiễm nếu sử dụng trực tiếp nguồn nước đó mà không qua xử lý bằng clo hay các biện pháp tiệt trùng khác. Ngoài ra, người bình thường có thể bị lây nhiễm do bơi trong các ao, hồ này.

Các triệu chứng của việc nhiễm E.coli O157:H7
- Tiêu chảy, kèm theo máu
- Đau rút dạ dày
- Buồn nôn, nôn mửa
Trẻ em cũng có các triệu chứng tương tự như ở người trưởng thành. Các triệu chứng này bắt đầu từ 3-4 ngày sau khi nhiễm khuẩn E.coli và sau đó sẽ yếu dần đi trong khoảng một tuần, do đó mọi người thường để tự khỏi hơn là tới gặp bác sĩ để biết nguyên nhân gây bệnh. Khi E.coli bắt đầu gây ra các vấn đề nghiêm trọng về máu và thận, các triệu chứng mới sẽ xuất hiện như:
- Da xanh xao
- Sốt
- Cơ thể suy nhược
-  Xuất hiện các vết thâm trên da
- Tiểu ít.
Người bệnh nên uống nhiều nước để bù lại sự mất nước do tiêu chảy. Việc điều trị nhiễm trùng E.coli trước hết là bổ sung nước cho người bệnh bằng truyền dịch hoặc uống nước trực tiếp. Trong một số trường hợp, việc nhiễm trùng E.coli có thể gây mất nước nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già. Nếu bệnh nhân có các biểu hiện nhiễm khuẩn nặng và gặp các vấn đề về máu và thận như thiếu máu hoặc suy thận, các bác sĩ nên bổ sung nước và khoáng chất, trong trường hợp bệnh nhân bị suy thận, cần tiến hành các biện pháp lọc máu. Việc truyền máu cũng góp phần làm giảm sự thiếu máu và bổ sung lượng máu giàu oxy cho người bệnh.
Đa số người bệnh sẽ khỏe dần sau 5-10 ngày mà không cần sử dụng các loại thuốc hỗ trợ, tốt nhất nên hạn chế sử dụng các loại kháng sinh. Nên nói với bác sĩ nếu người bệnh nhiễm khuẩn E.coli và đang phải sử dụng kháng sinh. Bên cạnh đó, cũng không nên sử dụng các loại thuốc chữa tiêu chảy do các loại thuốc này sẽ làm chậm việc tiêu hóa thức ăn ở ruột và kéo dài thời gian bệnh nhân bị nhiễm độc vi khuẩn, trong một số trường hợp có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng về máu và thận. Nên tránh sử dụng các loại thuốc chữa tiêu chảy có chứa:
- Loperamide
- Salicylates: do chất này có thể gây chảy máu đường ruột và có thể dẫn đến hội chứng Reye (gây sưng gan, não và có thể dẫn đến tử vong)
- Difenoxin với atropine
- Diphenoxylate với atropine.

Rất khó phát hiện thực phẩm đã bị nhiễm E.coli hay chưa do việc nhiễm khuẩn không gây ra sự biến đổi về màu sắc hay gây ra mùi lạ, để tránh việc nhiễm khuẩn E.coli, tốt nhất mọi người nên thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, đặc biệt là sau khi tiếp xúc với động vật, môi trường sống hay chất thải của chúng. Ngoài ra, nên đun thức ăn ở tối thiểu 710C (1600F) trước khi sử dụng, thường xuyên lau rửa các dụng cụ nhà bếp và vệ sinh bề mặt tiếp xúc với thịt sống. Đối với các sản phẩm từ sữa, người dùng nên sử dụng sữa và các sản phẩm từ sữa đã qua tiệt trùng và có đóng dấu. Khi đến các khu vực có nguồn nước không an toàn, không nên uống nước trực tiếp từ vòi hay đá được làm từ nguồn nước địa phương. Tránh ăn các rau củ quả sống.
 Biên tập: Phạm Ngọc Sơn
Nguồn: